Thursday, April 25

Lãi hàng trăm triệu đồng từ nuôi lươn không bùn

Cán bộ Trạm Khuyến nông Vĩnh Bảo kiểm tra hiệu quả triển khai mô hình. Ảnh: Đinh Mười.

Cán bộ Trạm Khuyến nông Vĩnh Bảo kiểm tra hiệu quả triển khai mô hình. Ảnh: Đinh Mười.

Theo hướng dẫn của Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng, ông Đào Trọng Châu, xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo đã triển khai mô hình nuôi lươn không bùn với quy mô 3 vạn con.

Thời điểm bắt đầu nuôi, cỡ giống chỉ 40 – 60 con/kg và mật độ nuôi dưỡng là 200 con/m2, sang giai đoạn 2, mật độ nuôi thương phẩm giảm còn 150 con/m2. Lươn nuôi từ tháng 9/2022 đến tháng 5 năm 2023.

Giống lươn được nhân tạo, đã được sinh sản, ương dưỡng trong bể không bùn, thích nghi với môi trường, tỷ lệ sống đạt cao, tăng trưởng nhanh, năng suất cao, tiết kiệm được chi phí, hiệu quả kinh tế cao, chất lượng thịt thơm ngon, dai thịt và được thị trường ưa chuộng.

Qúa trình nuôi lươn, ông Châu được cán bộ kỹ thuật của Trạm Khuyến nông Vĩnh Bảo hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, ứng dụng các chế phẩm sinh học.

Theo hướng dẫn, ông Châu làm bể nuôi bằng xi măng, bể lót bạt và có thể tận dụng các công trình sẵn có như chuồng lợn hoặc các bể nước cải tạo lại để nuôi.

Ông Đào Trọng Châu giới thiệu về cách nuôi lươn không bùn. Ảnh: Đinh Mười.

Ông Đào Trọng Châu giới thiệu về cách nuôi lươn không bùn. Ảnh: Đinh Mười.

Với bể nuôi kiểu này, lươn có thể dựng thân vào thành bể để ngoi lên bò ra ngoài, nên bể cần có đủ độ cao để tránh lươn bị thất thoát. Bể có hình chữ nhật chiều rộng 1,0 – 2m và chiều dài 2 – 5m, độ sâu tối thiểu từ 0,8 – 1,0m.

Để tiết kiệm diện tích xây dựng và dễ quản lý, ông Châu đã thiết kế khu nuôi thành nhiều bể liên tiếp, thành và đáy bể cần làm bằng các vật liệu trơn láng còn mặt đáy cần bằng phẳng và hơi nghiêng về phía ống thoát nước.

Toàn bộ hệ thống nuôi được che bởi mái che nhằm hạn chế ánh sáng chiếu trực tiếp vào bể làm nhiệt độ nước tăng cao ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lươn.

Để lươn có nơi trú ẩn, ông Châu đã dùng vỉ tre cắt thành từng đoạn gần bằng chiều dài bể và bào gọt thật láng. Sau đó đóng đinh hoặc dùng dây buộc chặt thành những tấm vạt, cây cách cây 4 – 6 cm, diện tích các tấm vạt bằng 60 – 70% diện tích bể.

Ngoài ra, ông Châu cũng đặt mỗi bể đặt 2 – 3 vạt, tấm trên cùng thấp hơn mặt nước 1cm. Vỉ tre được ngâm nước trước khi sử dụng, còn vị trí đóng đinh được làm cẩn thận, không bị nhô ra, có thể làm xây xát lươn nuôi.

Nuôi lươn trong bể xi măng cho hiệu quả cao, dễ chăm sóc. Ảnh: Đinh Mười.

Nuôi lươn trong bể xi măng cho hiệu quả cao, dễ chăm sóc. Ảnh: Đinh Mười.

“Để nuôi loại lươn từ 50 con/kg trở lên, các thanh tre trong vỉ có khoảng cách 3cm, chiều cao 3cm, dùng dây bện đan ngang, có thể xếp 4 vỉ chồng lên nhau. Còn để nuôi loại lươn từ 50con/kg trở xuống thì các thanh tre trong vỉ có khoảng cách từ 1,5 – 2cm, chiều cao từ 1,5 – 2cm, có thể làm 3 vỉ chồng lên nhau”, ông Châu chia sẻ.

Về kinh nghiệm chọn giống, ông Châu cho biết, ông đã chọn con giống nhân tạo ở các cơ sở sản xuất có uy tín, con giống có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, có màu vàng đặc trưng của loài, bơi nhanh nhẹn, da không bị trầy xước, mất nhớt.

Trước khi thả lươn giống vào bể nuôi, tắm qua dung dịch nước muối nồng độ 2-3% khoảng 1-2 phút và kiểm tra kỹ, nếu phát hiện những con bị bệnh hay yếu, lờ đờ, xây sát thì phải loại ra.

Sau đó, ngày thứ nhất sau khi bố trí lươn vào bể nuôi dưỡng không nên cho ăn để lươn ổn định, từ ngày thứ 2 trở đi bắt đầu cho lươn ăn trùn chỉ hoặc trùn quế để tăng cường sức đề kháng và khả năng chống chịu với bệnh.

Trong giai đoạn nuôi dưỡng, ông Châu thay nước toàn bộ hàng ngày và vệ sinh bể nuôi để kích thích lươn bắt mồi, sau 2 – 3 tháng nuôi dưỡng lươn đạt cỡ giống lớn thì tiến hành phân cỡ và san bể nuôi để lươn trong mỗi bể có kích cỡ đồng đều.

Dự kiến, đến khi xuất bán, trọng lượng đạt 200-250g/con, có chiều dài từ 55-60 cm/con. Ảnh: Đinh Mười.

Dự kiến, đến khi xuất bán, trọng lượng đạt 200-250g/con, có chiều dài từ 55-60 cm/con. Ảnh: Đinh Mười.

Do lươn có tập tính ăn lẫn nhau, nên khoảng 1 tháng nuôi hoặc thấy lươn có phân đàn cần tiến hành phân cỡ ra nuôi riêng để hạn chế lươn hao hụt. Trước khi phân cỡ cho lươn nhịn ăn 1 ngày, dùng sàng trơn láng để phân loại cỡ lươn hoặc dùng vợt để bắt lươn.

“Trong quá trình nuôi, tôi nhận nhận thấy nuôi lươn trên bể xi măng rất dễ nuôi, cách chăm sóc thuận tiện kiểm soát được tỷ lệ sống, lượng thức ăn dư thừa và quản lý được môi trường nuôi tốt. Nuôi lươn trên bể xi măng lươn sinh trưởng phát triển tốt không xảy ra dịch bệnh.

Còn đối với nuôi lươn theo cách truyền thống thì tỷ sống thấp không kiểm soát được lượng thức ăn cho lên ảnh hưởng rất lớn đến môi trường nước dẫn đến con lươn rất hay mắc bệnh về đường ruột và ngoài da”, ông Châu cho hay.

Là người theo dõi và hướng dẫn người dân từ đầu, chị Nguyễn Thị Dĩnh, cán bộ Khuyến nông Trạm khuyến nông Vĩnh Bảo chia sẻ, nuôi lươn không bùn trong bể xi măng rất thuận tiện tận dụng tất cả quỹ đất nhỏ lẻ từ 4m2 trở lên là ta có thể nuôi lươn được.

Đặc biệt nuôi lươn trong bể xi măng không xảy ra dich bệnh vì hàng ngày thay nước từ 2 đến 3 lần và vệ sinh bể, giá thể dẫn đến môi trường sạch lươn sinh trưởng phát triển tốt. Tận dụng được nguồn lao động sẵn có tại địa phương”.

Mô hình nuôi lươn không bùn tại gia đình ông Châu đạt hiệu quả, có thể nhân rộng. Ảnh: Đinh Mười.

Mô hình nuôi lươn không bùn tại gia đình ông Châu đạt hiệu quả, có thể nhân rộng. Ảnh: Đinh Mười.

Lươn có đặc tính ưa tối, thích trú ẩn, thường sống chui rúc trong bùn, ruộng, mương… nên khi nuôi trong bể xi măng phải tạo nơi trú ẩn cho lươn bằng cách làm các giá thể bằng dây nilon đen.

So với phương thức nuôi truyền thống trong ao bùn thì mô hình nuôi này lươn có tốc độ tăng trọng nhanh, dễ quan sát quá trình sinh trưởng và phát triển bệnh của lươn.

Bên cạnh đó, nuôi lươn không bùn trong bể xi măng có thể nuôi với mật độ dày hơn so với nuôi lươn truyền thống, chi phí thức ăn thấp. Ngoài ra, lươn thường gặp về bệnh đường ruột, gan… nên công tác phòng bệnh định kỳ cho lươn cũng được chú trọng.

Riêng với mô hình của gia đình ông Châu, sau 10 tháng triển khai, hiện nay lươn đang sinh trưởng và phát triển tốt, tỷ lệ nuôi sống đạt 97%, thức ăn cho lươn có nguồn gốc từ động vật như tép, cá tạp, ốc bươu vàng cắt nhỏ.

Dự kiến, đến khi xuất bán, trọng lượng đạt 200-250gr/con, có chiều dài từ 55-60 cm/con với giá bán khoảng 160-180.000 đồng/kg, mô hình dự kiến mang lại doanh thu cao, sau khi trừ chi phí doanh thu đạt 70.000đồng/kg cao hơn so với nuôi cách truyền thống từ 25-30%.

Theo Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng, nuôi lươn không bùn có ưu điểm là cỡ giống đồng đều, chất lượng giống ổn định, sử dụng được thức ăn viên giúp cho tỷ lệ sống cao và thuận lợi trong quá trình nuôi.

Mặt khác, mô hình này ít tốn diện tích phù hợp cho hộ ít đất sản xuất, phù hợp cả nơi đô thị, ít tốn thời gian, dễ áp dụng kỹ thuật, cho thu nhập cao.

Nuôi lươn không bùn của gia đình ông Đào Trọng Châu là một mô hình mới và có giá trị kinh tế cao ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, mô hình đã khắc phục được phần nào những hạn chế của kiểu nuôi lươn truyền thống và đem lại hiệu quả kinh tế cho các hộ dân.

Bên cạnh đó, việc nuôi lươn không bùn đã giúp gia đình ông Châu tận dụng được thời gian lao động nhàn rỗi ở nông thôn, hiệu quả và giá trị kinh tế mang lại, mô hình có khả năng nhân rộng ra sản xuất đại trà.

Please follow and like us:
Pin Share
RSS
Follow by Email